"Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi!
Mẹ hiền
ru những câu xa vời
À à ơi,
tiếng ru muôn đời.
Tiếng nước tôi, bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc
cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi
Tiếng
nước tôi, tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt
ngàn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi".
Đó là những dòng đầy xúc động tự hào về tiếng mẹ sinh thành trong nhạc
phẩm “Tình ca” của cố nhạc sĩ, tài năng lớn - Phạm Duy. Dẫu trải qua biết bao biến thiên của
thời đại, tiếng Việt vẫn khẳng định được sức sống mãnh liệt của mình. Không
những không bị mai một đi mà tiếng Việt còn được phát triển, nâng tầm trở thành
ngôn ngữ nghệ thuật như Giáo sư, Tiến sĩ Lý luận Văn học Trần Đình Sử đã nhận
xét về cách sử dụng ngôn từ trong tuyệt phẩm Truyện Kiều của Đại thi hào Việt
Nam - “Nguyễn
Du đã phát hiện được các quy luật ẩn kín của tiếng Việt để giải cấu trúc ngôn
từ thực dụng và tái cấu trúc những biểu đạt mới, “đập vỡ” cấu trúc ngôn ngữ hàng ngày để tạo
thành ngôn ngữ nghệ thuật”.
Vì hiểu được chiều sâu giá trị và sự đắc dụng của ngôn
ngữ dân tộc đồng thời khơi gợi tình yêu cũng như góp phần giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt, nhà báo - giảng viên Nguyễn Minh Hải (Bút danh thường dùng:
Trúc Giang) đã dụng công tập hợp và sửa chữa một số bài viết của ông đã được
đăng trên các báo như: Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn giải phóng, Thời
báo Kinh tế Sài Gòn, Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh…để cho ra đời đứa con tinh
thần “Cùng em yêu tiếng Việt”. Những trăn trở của Nguyễn Minh Hải đối
với tiếng Việt được thể hiện cụ thể trong phần “Mấy lời thưa trước”. Tại
đây, tác giả tâm tình “Qua công việc làm báo suốt 20 năm, cộng
với thời gian đi dạy nhiều lớp đại học, cao đẳng…tôi nhận thấy việc sử dụng
tiếng Việt của nhiều học sinh, sinh viên còn chưa tốt. Việc dùng đúng, dùng hay
tiếng Việt thực ra không dễ dàng đối với nhiều người. Điều có lẽ cần hơn là một
tình yêu thực sự với tiếng Việt thì lại chưa thấy thể hiện rõ…”.
44 bài viết trong ấn phẩm “Cùng em yêu tiếng Việt” là tập hợp 44 bài báo của tác giả Nguyễn Minh Hải, được Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh ấn hành vào năm 2019, trong khổ 14 x 21 cm với 220 trang viết. Ấn tượng đầu tiên của bạn đọc khi tiếp cận với trang bìa của cuốn sách đó là bức tranh không gian của một lớp học đầy ắp tình yêu thương, ở đó có các em học sinh mặc áo sơ mi trắng đang hăng hái giơ tay phát biểu bài. Trên bục giảng là hình ảnh cô giáo dịu dàng với nụ cười hiền hậu, nền nã trong tà áo dài truyền thống Việt Nam màu hồng nhạt, đang say sưa trao truyền kiến thức về tiếng Việt, ca dao, dân ca cho thế hệ trẻ. Bên trên là tên tác giả bằng chữ màu đen được in trang trọng trên nền chuyển sắc vàng. Và phía trên cùng là nhan đề “Cùng em yêu tiếng Việt” được in màu trắng, cỡ chữ to, nổi bật trên nền bìa màu xanh như tượng trưng cho tâm hồn ngây thơ của các bạn nhỏ hay đó là sự trong sáng của tiếng Việt mà tất cả chúng ta đều có trách nhiệm phải giữ gìn.
Trang bìa
sách “Cùng em yêu tiếng Việt” - Thiết kế ảnh: Kim Phượng
Lật giở trang sách đầu tiên, tác giả cho người đọc thấy
được mục đích, ý nghĩa lớn lao của việc dạy và học tiếng Việt. Tại trang 9 của
ấn phẩm với bài viết “Nâng cao tinh thần
tự tôn dân tộc qua cách dạy tiếng Việt!”, bằng sự quan sát tinh tường, sắc
bén của một nhà báo cùng với triết lý giáo dục của một người giảng viên đại học,
tác giả đã chia sẻ bằng cả tâm huyết của mình “…đối với học sinh, việc dạy tiếng Việt không chỉ để sử dụng tốt tiếng
Việt trong giao tiếp, đọc và nghiên cứu tài liệu, viết các văn bản tiếng Việt
mà còn để khơi gợi và nâng cao tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc”.
Như chúng ta đã biết, chữ viết là phương tiện diễn đạt
không thể thiếu trong văn học. Nhắc đến văn học, nhà
văn nổi tiếng thế giới người
Nga Macxim Gorki đã từng đúc kết “Văn học là nhân học” như một lời khẳng
định mang tính chân lý về tầm quan trọng của văn học và vai trò của những người
sáng tạo nên những tác phẩm văn chương cho nhân loại. Ở Việt Nam ta, cố Thủ tướng
- Nhà văn hoá lớn Phạm Văn Đồng đã nói một câu rất hay, đại ý như thế này “dạy văn là dạy ngôn ngữ và văn học…cũng đồng
thời có thể dạy cho học sinh về các mặt khác…Trong một bài văn, ta có thể dạy
cái hay, cái đẹp khác nữa…về tâm hồn, về tư tưởng, về lẽ sống…”. “Hay giảng những
tác phẩm viết về biển đảo không chỉ khơi gợi sự tìm hiểu về biển đảo nói riêng
và về việc giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ nói chung…”. Tuy nhiên trên thực tế,
việc dạy văn và học văn trong nhà trường còn đôi chỗ chưa phù hợp, còn nặng về
hình thức dẫn đến kết quả chưa đạt được như kỳ vọng của xã hội. Để biết được hiện
trạng đáng báo động về cách dạy và học văn hiện nay cụ thể như thế nào, xin mời
bạn đọc tìm đến bài viết “Dạy văn là dạy
làm người” tại trang 62 của cuốn sách.
Lần giở đến những trang tiếp theo, tác giả chỉ ra cho
người đọc biết rằng, đối với những từ rất gần gũi để chỉ bộ phận cơ thể người mà
chúng ta thường xuyên bắt gặp trong cuộc sống hằng ngày như “chân”, “tay”, “bụng
dạ”, “mặt mũi”, “máu thịt”…tuy đơn giản nhưng ẩn chứa trong nó nhiều tầng nghĩa
khác so với nghĩa gốc. Chẳng hạn với từ “tay”, nghĩa ban đầu chỉ bộ phận phía
trên của cơ thể người, từ vai đến các ngón, dùng để cầm nắm…nhưng nói câu “Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền
về tay nhân dân” thì “tay” ở đây là biểu tượng của quyền sử dụng, sự định
đoạt. Ngoài ra, từ “tay” còn biểu thị nhiều tầng nghĩa khác như chỉ cảnh gặp gỡ
vui vẻ trong “tay bắt mặt mừng” hay
chỉ quyền quản lý việc chi tiêu của gia đình trong “tay hòm chìa khoá”…Từ đó mới thấy, tiếng Việt mang thật nhiều sắc
thái biểu cảm và giàu đẹp đến nhường nào. Vậy để nâng cao vốn từ, hiểu được chiều
sâu và sự đa nghĩa của tiếng Việt, điều mà các nhà văn, nhà thơ Việt Nam đã vận
dụng rất linh hoạt, tinh tế, ý nhị và cho ra đời nhiều áng văn chương bất hủ
cho muôn đời sau, mời bạn đọc tìm đến trang 134 với bài viết “Học về sự giàu đẹp của tiếng Việt qua những
từ liên quan đến cơ thể”.
Trong dân gian từ xưa đã lưu truyền câu nói “nét chữ, nết
người”. Mặc dù câu nói này vẫn còn nhiều tranh cãi chưa hồi kết nhưng tựu
trung lại, ông cha ta muốn nhấn mạnh việc viết chữ đẹp có ý nghĩa như thế nào trong xây dựng, hình thành
nhân cách con người. Trong thời đại chuyển đổi số hiện nay, khi công nghệ
thông tin ngày càng phát triển vượt bậc, “có
ý kiến cho rằng trẻ học biết viết chữ xong thì phần nhiều có thể sử dụng máy
tính, nên chỉ cần viết chữ “đọc được” chứ không cần mất nhiều thời gian gò chữ
đẹp…”. Bằng ngòi bút giản dị, súc tích nhưng lý luận chặt chẽ, tác giả đã dành
dung lượng nhiều nhất trong số tất cả các bài viết để phân tích và gợi mở cho độc
giả hiểu sâu sắc hơn vấn đề mà đâu đó thường bị xã hội lãng quên và xem nhẹ “…trên thực tế, dù có sử dụng máy tính thường
xuyên thì trẻ vẫn phải viết tay cho đến hết bậc phổ thông, thậm chí cả bậc đại
học…nét chữ có thể bộc lộ nhiều điều về bản thân người viết và thể hiện mức độ
nào đó tình cảm của mình” hay “khuyến
khích học sinh luyện tập chữ đẹp, chữ đúng là việc cần thiết để các em ngay từ
bé đã có được thói quen làm việc gì cũng ngăn nắp, trật tự, kỹ càng và lâu ngày
dễ tạo nên tính cách có quy củ”…Từ lập luận đó, tác giả đi đến khẳng định “rèn luyện chữ viết cũng là một cách rèn luyện
nhân cách”. Không những vậy, tác giả còn đưa ra một số đề xuất thiết thực
giúp cho học sinh có thể rèn được chữ đẹp ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Vậy để biết thêm nhiều cách làm hay trong hành trình rèn chữ đẹp, viết chữ
đúng, mời quý độc giả tìm đọc đến trang 162 của ấn phẩm với bài viết “Chữ viết thể hiện tính cách”.
Rồi dường như đồng cảm với tâm tình của người nhạc sĩ tài hoa Phạm Duy
trong lời hát đã nhắc ở trên“tôi yêu tiếng
nước tôi từ khi mới ra đời…”, trong tác phẩm “Cùng em yêu tiếng Việt” tác giả -
nhà báo Nguyễn Minh Hải cũng dành tình yêu đặc biệt cho phương ngữ đặc trưng xứ
miền Tây nơi anh chôn nhau cắt rốn. Và, sự đặc sắc của loại ngôn ngữ đó được
tác giả chia sẻ hết sức cụ thể và sinh động bằng miền ký ức về tiếng nói độc
đáo của quê hương thông qua bài viết “Tôi
yêu tiếng quê tôi…” mời bạn đọc theo dõi từ trang 201 đến trang 204 của cuốn
sách.
Với ấn phẩm nhỏ này, tác giả không có
tham vọng giải quyết những vấn đề lớn lao về tiếng Việt, chỉ là những gợi ý dưới
góc nhìn của tác giả về những biểu hiện chưa thực sự tích cực trong việc dùng
tiếng Việt trong nhà trường. Đó có thể là “Học
từ Hán Việt không phải là mất gốc!” (bài viết ở trang số 9); “Giáo viên phải là người truyền tình yêu tiếng
Việt” (trang 20); “Cải tiến tiếng Việt
một việc không cần thiết” (trang 25); “Phải
thực sự chú trọng kỹ năng nói!” (trang 31); “Dạy văn miêu tả phải gắn với thực tế” (trang 71) hay “Những vấn đề cần quan tâm khi viết văn nghị
luận” (trang 196) và một số bài
viết khác đề cập về việc dạy và học ngữ pháp, từ mượn, từ đồng âm, từ đồng nghĩa
- trái nghĩa, cách diễn đạt tiếng Việt, nét đẹp của thành ngữ, tục ngữ Việt Nam…
Từ thời cổ đại đến nay, chữ
viết, tiếng nói là phương tiện ngôn ngữ để truyền đạt thông tin, là tín hiệu để
mỗi người thể hiện tình cảm, cảm xúc, là của cải tinh thần thiêng liêng và là niềm tự hào
của bất kỳ dân tộc nào trên thế giới. Tiếng Việt cũng như vậy. Đó là niềm tự
hào, là bản sắc, là văn hoá của dân tộc Việt Nam. Suốt những năm tháng chiến
tranh ác liệt hay trong thời bình, tiếng Việt vẫn len lỏi vào từng hơi thở của
cuộc sống, trong từng lời ăn tiếng nói hằng ngày, trong từng áng văn thơ, như một ngọn lửa
bền bỉ
cháy trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam. Có lúc, tiếng Việt là những lời động viên vang vọng trong
những cánh thư từ hậu phương gửi ra tiền tuyến nơi mưa bom bão đạn ác liệt. Có
lúc, tiếng Việt là những lời khẳng định đanh thép trong Bản Tuyên ngôn Độc lập của
chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại mà Người đã đọc tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội)
vào Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Ngày 02 tháng 9
năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, mở ra một kỷ nguyên mới
cho dân tộc Việt Nam ta - Kỷ nguyên Độc lập, Tự do và Chủ nghĩa Xã hội.
Sinh thời, Bác Hồ kính yêu đã từng nói: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu
của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày
càng rộng khắp” hay như học giả Phạm Quỳnh - Người đã có nhiều đóng góp
cho sự nghiệp văn hóa của
nước
nhà, trong bối cảnh khi ấy đất
nước ta bị người Pháp đô hộ cũng có câu: “Truyện Kiều còn, tiếng
ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”. Cho đến bây giờ, những câu nói ấy vẫn còn giữ nguyên giá trị. Đó như một
lời nhắc nhở về trách nhiệm của cộng đồng xã hội trong việc chung tay bảo tồn
và phát huy chữ viết, tiếng nói của dân tộc Việt Nam đồng thời giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt, làm cho tiếng Việt ngày càng giàu đẹp và trường tồn cùng
năm tháng. Muốn được như vậy, vai trò tiên phong của các thầy cô giáo trong quá
trình định hướng, giáo dục học sinh về ý thức cũng như cách thức giữ gìn và trân
trọng vẻ đẹp của tiếng Việt là điều cốt lõi, cực kỳ quan trọng.
Nhân dịp đầu năm học mới,
niên khoá 2024 - 2025, Thư viện thành phố Tam Kỳ trân trọng giới thiệu cuốn
sách “Cùng em yêu tiếng Việt” đến
quý bạn đọc gần xa, đặc biệt xin gửi đến các nhà giáo, các em học sinh để chúng
ta cùng đọc, cùng nhau suy ngẫm từ đó hiểu thêm và yêu thêm tiếng Việt. Ấn phẩm
này hiện đang trưng bày và phục vụ tại kho sách người lớn – Cơ sở Thư viện số cộng
đồng thành phố Tam Kỳ (Địa chỉ: Quảng trường 24/3, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng
Nam). Kính mời quý độc giả, quý thầy cô cùng các em học sinh dành thời gian tìm
đọc với chỉ số xếp giá: 495.922/NG-H.
Dưới đây là thông tin thư mục của ấn phẩm:
Cùng em yêu tiếng Việt/ Nguyễn Minh Hải. - Tp. Hồ Chí Minh
: Tổng hợp
Tp. Hồ Chí Minh, 2019. - 220tr. : ảnh; 21cm
------------------------------------------------------